Thứ Hai, 3 tháng 5, 2010

Cổ tích số phận 2 ngàn năm


Kính tặng Mẹ

Có những ngôi làng, lời nguyền rủa giáng xuống đời đời.
Táo không mọc ra hoa
Giếng nước
Cạn khô.

Những người con trai mắt bị mờ
Những đứa trẻ mù thất học
Những mẹ những chị lam lũ không ngày vui
Cỏ, lúa không được sưởi trong ánh của mặt trời
Già làng bỏ đi
Dê, bò bỏ lại

Có những đất nước
Không lần nào phải gánh lời nguyền rủa
Biển rất xanh và núi cũng rất xanh
Không có cóc yểm bùa mê
Người già không bỏ làng
Trẻ con ham học
Những người con trai con gái đáng yêu
Đẹp như không thể nào hơn được nữa
Làm cỏ dưới đồng
Chân thơm mùi lúa
Lúng liếng khi hát làn dân ca
Đỏ má cười khi xem tranh thiếu nữ
Quàng quanh hoa cúc hoa sen
Cứ thấy nao nao cõi Phật

Con đò nhỏ, ngôi làng nhỏ
Đất nước rộng dài
Những cơn giông tháng 8
Những rét nàng Bân ghê người
Những đêm dài bão tố
Nghìn năm
Thốc đè trên mái làng nhỏ
Trên hình hài đất nước
Và, phần u tối lịch sử
Đêm đen mênh mông
Đêm đen đặc quánh, bầy nhầy
Bôi phết quyết liệt
Muốn hủy diệt
Ngôi làng nước non có hình tia chớp
Nhân danh đức phật xóa hình của Phật.

Đêm đã đen nghìn năm
Giếng nước
Cạn khô.

Từ trong sách , trong thơ
Trong tranh trong nhạc
Lịch sử đã kể lại rằng :
Một tràng trai đến từ phía Tây
Nơi xa
Nơi có giường nằm của Thần Mặt Trời
Nơi có những câu trả lời để táo có quả
Để giếng trở lại có nước
Để phần đêm đen đi qua đời người
Để dân làng, đồng ruộng sinh sôi.

Những sợi tóc vàng của Thần Mặt Trời
Đã làm nên chữ viết
Chữ viết trăm năm
Làm ra ánh sáng
Ánh sáng trăm năm
Làm ra Nhân Cách
Của Làng, của Người
Chàng Trai làm cây cầu,
Dựng nhà để hát.
Con chữ chạy dài
Tận cùng với số phận đất nước.

Có những ngôi làng không bị lời nguyền rủa
Trẻ con ở trên núi cao
Không mặc quần vào ngày Đông,
Chân không, đi đất
Không sở hữu những chiếc ôtô
Chỉ vì không có đường
Tìm về chữ viết.
Không dinh thự nào
Chứa hết
Câu chuyện
Tiếp của Hai ngàn năm
Cổ tích.
Hà nội, ngày 24/4/2010